Bạn thân mến, trong niềm vui trọng đại cùng triều thần Thiên Quốc, Hội Thánh hoan hỉ vui mừng khi Đức Trinh Nữ Maria được Thiên Chúa thương ban đặc ân Hồn Xác Về Trời. Và trong Thánh lễ tạ ơn ngày hôm nay chúng ta tham dự, chúng ta sẽ lắng nghe lại bài vịnh Chúc tụng của Mẹ với tên gọi quen thuộc: Magnificat – Ngợi Khen
Ấy vậy, trong thời Cựu Ước, bài vịnh Ngợi Khen với ca từ và tâm tình này cũng đã được một người mẹ dâng lên tạ ơn Thiên Chúa, vì là người son sẻ, nay được thiên chức làm mẹ của một đứa trẻ, là người sẽ trở nên vị thẩm phán cuối cùng và đồng thời cũng là vị ngôn sứ đầu tiên cho Ngài, đó chính là bà Anna – thân mẫu của cậu bé Samuel
Thật vậy, các học giả nhận thấy rằng vị tác giả sách thánh đã đặt trên môi miệng bà Anna một loại Thánh Vịnh vương giả, một loại thánh vịnh phảng phất những trích dẫn và những qui chiếu gián tiếp theo những bài Thánh Vịnh khác
Trong dân Do Thái xưa, người phụ nữ nào bị coi như là một cành cây khô, một sự hiện diện chết chóc, một phần là bởi vì họ đã gây cản trở chồng mình trong việc nối dõi tông đường, một sự kiện quan trọng ở những gì vẫn còn là một viễn ảnh bất định và mập mờ về cuộc sống tương lai
Tuy nhiên, bà Anna đã đặt tin tưởng nơi Vị Thiên Chúa, và Thiên Chúa thực sự đã nghe tiếng kêu của người đàn bà khiêm hạ này, Ngài đã ban cho bà Samuel: một thân cây khô đã trổ sinh một chồi cây sống; điều đối với quan điểm loài người bất khả đã trở thành một thực tại cảm kích, đó là con trẻ được hiến dâng lên cho Chúa
Trong phần tiền cảnh, hình ảnh của một vị vua Do Thái hiện lên, bị đối phương quyền lực hơn tấn công, nhưng cuối cùng đã được cứu và chiến thắng vì Chúa là Đấng ở với vua, Ngài đã bẻ gẫy những cung tên của kẻ quyền uy thế lực (1 Sm 2,4). Bài ca được kết thúc một cách có ý nghĩa, khi Chúa xuất hiện bằng một cuộc thần hiển long trọng: “Những kẻ thù của Chúa bị đánh tan. Đấng Tối Cao trên tầng trời làm vang dội sấm xét; Chúa phán xử khắp cùng bờ cõi trái đất. Giờ đây Ngài ban sức mạnh cho vị vua của Ngài và tạo quyền thế cho Đấng Ngài xức dầu” (1 Sm 2, 10). Theo tiếng Do Thái, chữ cuối cùng chính là “đấng thiên sai”, tức là “đấng được xức dầu”, một từ ngữ làm cho lời cầu nguyện vương giả này được biến thành một bài ca của niềm hy vọng về một vị thiên sai
Như vậy, Người ta dễ nhận thấy nơi lời cầu nguyện cổ kính này đề tài về bảy tác động được Mẹ Maria thấy Thiên Chúa Cứu Tinh thể hiện trong giòng lịch sử: “Ngài đã ra tay uy quyền, Ngài đã dẹp tan kẻ ngạo mạn…, Ngài đã hạ kẻ quyền năng xuống khỏi ngai tòa của họ, và nâng những ai thấp hèn lên; Ngài đã cho người đói khó đầy những gì thiện hảo, và đã để kẻ giầu có trở thành tay không. Ngài đã hộ phù Do Thái tôi tớ của Ngài” (Lc 1, 51-54) Đó là lời tuyên xưng đức tin của hai bà mẹ trước Vị Chúa của lịch sử, Đấng tự mình trang bị để bảo vệ kẻ thấp hèn nhất, kẻ bần cùng và bất hạnh, kẻ bị tổn thương và nhục nhã
Cả hai bài thánh ca đều là một lời cảm kích tuyên xưng đức tin nơi Vị Chúa của lịch sử, Đấng đứng về phía kẻ thấp hèn nhất, người bần cùng, và kẻ khổ đau. Bụng dạ son sẻ của bà Anna giống như một ngôi mộ tối tăm, song Thiên Chúa đã làm cho nó thành nơi phát sinh sự sống mới. Nhờ đó, chúng ta thấy một hình ảnh mờ mờ về Sự Phục Sinh, khi sự sống hoàn toàn chiến thắng trên sự chết. Cùng với bà Anna và Mẹ Maria, chúng ta cũng hát lên những lời chúc tụng Thiên Chúa, là Đấng “hằng thương xót những ai kính sợ Ngài”